++ Hãy đến với nhau bằng tấm lòng trung thực!++

Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011

Một góc nhìn về Công hàm của TT Phạm Văn Đồng

Nguyễn Hữu Quý
Hiến pháp là rường cột, là luật gốc của Quốc gia; mọi tuyên bố liên quan đến chủ quyền quốc gia, không được Quốc Hội thông qua là không có giá trị pháp lý

Đôi lời thưa với bạn đọc:

Tôi viết bài này vào tối ngày 15 sang ngày 16/6/2011, sau khi đọc bài của tác giả Đinh Kim Phúc trên Blog Nguyễn Xuân Diện; hôm nay 20/6/2011, nhân đọc bài Vì sao Công hàm năm 1958 của Phạm Văn Đồng không có giá trị? , của GS Nguyễn Tiến Dũng, tôi thấy rằng nhận định của tôi về khía cạnh pháp lý, tức là Quốc hội đúng với góc nhìn của GS Nguyễn Tiến Dũng; vậy xin đăng bài này để bạn đọc tham khảo.


Đọc bàiCông hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và quan hệ Việt – Trungcủa tác giả Đinh Kim Phúc đăng trên Blog Nguyễn Xuân Diện ngày 15/6/2011, tôi thấy cần trao đổi một vài nội dung, với tư cách là một người đọc, như sau:

Xin trích lại nguyên văn Công hàm mà TT Phạm Văn Đồng, đăng kèm bài viết của tác giả Đinh Kim Phúc:

“Thưa đồng chí Tổng lý

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.

Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.(3)

Tôi có nhận xét như sau:

Xét hoàn cảnh lịch sử tại thời điểm đó và nội dung Công hàm trả lời TT Phạm Văn Đồng, thì đây là một văn bản khôn ngoan của TT Phạm Văn Đồng và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Thật vậy, việc công nhận chủ quyền trong hải phận 12 hải lý của một quốc gia có biển là đương nhiên theo luật pháp quốc tế; do đó, việc công nhận ghi trong công hàm nói trên cũng chỉ là hành động “tát nước theo mưa” theo ý nghĩa ngoại giao mà thôi.

Sự khôn ngoan thể hiện ở chỗ: Công hàm không nêu đích danh hải phận 12 hải lý là gồm các đảo nào; và không có bản đồ đính kèm (dẫu rằng trong công bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có ghi đầy đủ).

Chính vì thế, trong một đoạn tiếp theo của bài viết, Tiến sĩ Balazs Szalontai đã phân tích rõ hơn:

[…] Dẫu vậy, ông ấy có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.

Ngoài ra, cần phải xét thêm hai vấn đề sau:

a. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó là thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa; vì vậy, việc tuyên bố của Việt Nam dân chủ cộng hòa (nếu có) có liên quan đến 2 quần đảo này là không có giá trị pháp lý. Vì một pháp nhân không thể tuyên bố về một vấn đề nào đó khi mà bản thân pháp nhân không thực sự sở hữu nó. Trong khi Chính phủ Việt Nam cộng hòa cực lực phản đối Trung Cộng.

b. Mọi vấn đề có liên quan đến chủ quyền quốc gia thường phải được Quốc hội phê chuẩn; việc thống nhất biên giới, lãnh thổ giữa hai quốc gia chí ít phải là sự thỏa thuận bằng một nghị định thư hay một tuyên bố chung sau khi được Quốc hội ở mỗi quốc gia phê chuẩn. Trong trường hợp này, đây chỉ là một công hàm, được hiểu như một văn bản ngoại giao, vì vậy không mang tính ràng buộc pháp lý.

Từ các nội dung trên, đặc biệt là hai nội dung (a) và (b), mong rằng, các nhà thương thuyết của Việt Nam, với nghiệp vụ chuyên môn của mình, có thể phân tích sâu hơn để phục vụ cho công việc đấu tranh pháp lý về chủ quyền của nước ta đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong một diễn biến khác; bài phát biểu của TT Nguyễn Tấn Dũng tại buổi mit-tinh quốc gia bế mạc Tuần lễ Biển và hải đảo Việt Nam năm 2011 tại thành phố biển Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa tối 8.6.2011, TT Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh:

“Tiếp tục khẳng định chủ quyền không thể tranh cải của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.

“Nhân dân Việt Nam, đất nước Việt Nam có đủ ý chí quyết tâm và sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để giữ gìn, bảo vệ các vùng biển và hải đảo của mình”.

Như vậy, trong suốt chiều dài lịch sử từ trước đến nay, chưa có lúc nào Việt Nam từ bỏ chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

16.6.2011

------------------
*****

3 nhận xét:

  1. Bác Quý nên đọc bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của TQ tuyên cáo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc TQ và so sánh với câu này

    "Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc"

    Phần B của bác, các ký kết trên bộ do ô Lê Công Phụng đã đưa ra cho Quốc Hội chưa ? Nếu rồi thì cả Quốc hội cũng đã bán nước, chưa thì biện luận phần b của bác coi như không có cơ sở . Thêm nữa, "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành", hoặc ô Phạm Văn Đồng lạm quyền, tiếm quyền, hoặc giá trị pháp lý của nó chính ở đó .

    Biện luận "vì tình thế lúc đấy nên phải nói như vậy" của bác lủng củng, có thể áp dụng được cho bây giờ là "tình thế lúc này chỉ nói được thế này", và đàn áp dân biểu tình cũng chỉ do tình thế . Chuyện gì đã xảy ra với câu hứa "Dù trường hợp gì cũng bảo vệ từng tấc đất của cha ông", vì tình thế nên mặc kệ không còn có nhiệm vụ bảo vệ ?!

    Bây giờ lại đẩy trách nhiệm cho VNCH nhiệm vụ giữ đảo . Nhưng ít nhất phía miền Bắc phải có 1 hành động đáng nói . Miền Bắc đã là gì, theo lời kể của Cao Xuân Huy "Nhưng điều đáng nhớ nhất lại không ở chuyện đánh trận hay chuyện tù đày, mà lại là chuyện không bảo vệ được lãnh thổ, anh ạ. Tôi kể anh nghe. Tết năm 74, tiểu đoàn tôi đang nằm ứng chiến ở Phú Bài, Huế, thì Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa. Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Quân Đoàn I, tiểu đoàn tôi là lực lượng trừ bị của Quân Đoàn, được lệnh chuẩn bị ra đánh lấy lại Hoàng Sa. Đơn vị thuỷ xa của Sư Đoàn đã từ Sài Gòn ra đến Đà Nẵng, tiểu đoàn tôi đã ở trong tư thế sẵn sàng, đợi lệnh xuống tàu. Thuỷ Quân Lục Chiến đi lấy lại Hoàng Sa là đúng "chỉ số" rồi. Gì chứ đánh nhau để bảo toàn lãnh thổ, lính tráng tụi tôi thằng nào cũng háo hức, tuy biết rõ rằng đi là chết, nhưng đánh nhau để giành lại đất nước, từ quan đến lính chúng tôi, thằng nào cũng hăm hở. Nhưng, ngay lúc đó, mặt trận trong nội địa miền Trung cùng lúc nở rộ, những cuộc tấn công lớn của các đơn vị Bắc Việt đã cầm chân chúng tôi, chúng tôi đã không có lệnh xuất quân đến Hoàng Sa" (http://tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do;jsessionid=6AC0ABF89C36B72142D915364846D428?action=viewArtwork&artworkId=12934)

    Muốn công hàm Phạm Văn Đồng "bớt" (chứ không mất hẳn) hiệu lực chỉ còn cách công nhận VNCH đã là một chính quyền thực thụ ngang hàng với chính quyền miền Bắc, tức có nghĩa bản chất của cuộc chiến tranh Nam Bắc là nội chiến mang tính chất xâm lược từ phía miền Bắc chứ không phải giải phóng . Khó đấy!

    Hỏi nhỏ bác cái này, để "quên đi quá khứ và tiến tới hòa hợp hòa giải", tụi em có phải quên luôn cái công hàm bán nước này không ?

    Trả lờiXóa
  2. cảm ơn bác đã cho 1 góc nhìn sâu và xuyên suốt. Việt Nam chưa bao giờ từ bỏ 2 quần đảo này.

    Trả lờiXóa
  3. Cách nay 15 năm, tôi có đọc 1 cuốn sách tiếng Anh của 1 tác giả Trung Hoa mà tôi quên tên viết về tranh chấp Việt Hoa năm 1979. Đó là lần đầu tiên tôi được thấy công hàm của thủ tướng Đồng. TRong những luận cứ về chủ quyền Hòang Sa, Trường Sa của họ, ngòai công hàm trên, và lời nói của ngọai trưởng Ung Văn Khiêm với Lý Kỳ Dân còn nói về cuốn sách Tập Bản Đồ Thế Giới của Bắc Việt in năm 1972 đã xác nhận chủ quyền của họ. Không biết có ai có cuốn sách này để kiểm chứng không (tôi còn giữ photocopy của hình bìa cuốn Tập Bản Đồ Thế Giới đó

    Trả lờiXóa

Tìm kiếm Blog này