++ Hãy đến với nhau bằng tấm lòng trung thực!++

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2011

Thùy Linh: Tôi thương Việt Nam

Đoản khúc của những cảm xúc
Tôi thương Việt Nam

Không thương sao được vì đó là nơi tổ tiên, ông bà và chính tôi nữa đã sinh ra. Là hành tinh duy nhất tôi ghé thăm khi may mắn kiếp này được làm người. Nơi đầu tiên tôi mở mắt nhìn ánh mặt trời và nhận ra cây lá, cỏ hoa của thế giới quanh mình…
Kể lại một chút chuyện xưa theo sử sách với ngậm ngùi, tiếc nuối (*). Chuyện kể rằng, vào thời Hùng Vương, nước Văn Lang đã có phong tục, tập quán và ngôn ngữ riêng của người Việt, khác với Trung Hoa. Người Việt thời đó đã chịu ảnh hưởng sâu xa Phật giáo Ấn Độ, ngôn ngữ và văn minh nước Việt thời xưa đã chịu ảnh hưởng của Đại Tạng Kinh Phật giáo. Vào thời nhà Triệu (207–111 TCN), Việt Nam đã có chùa rồi. Nhiều lắm nhé.

Lại có chuyện nghe như cổ tích mà là sự thật. Chử Đổng Tử lấy Tiên Dung, con gái vua Hùng. Hai người lập phố xá buôn bán và nơi ấy trở thành chợ có tên là Hà Lõa. Thương nhân nước ngoài thường ghé tới buôn bán. Sự tích quả dưa hấu của An Tiêm thời đó để biết đã có buôn bán bằng đường biển (dân gian bảo đó là người đầu tiên đi “xuất khẩu lao động” và “đánh quả” gửi về…Hihi…). Một hôm, có thương nhân rủ Đồng Tử hùn vốn ra nước ngoài “đánh quả”. Đồng Tử lên thuyền ra đi. Khi thuyền ghé lên bờ để lấy thêm nước và lương thực ở chân núi Quỳnh Viên, Đồng Tử lên núi dạo chơi, ngắm cảnh thì gặp một am tranh trên núi. Đó là nơi ở của sư Phật Quang (theo thiền sư Lê Mạnh Thát thì có thể đây là nhà sư người Ấn Độ do vua Ashoka cử đi truyền bá Phật pháp vào TKIII-TCN). Đồng Tử được nhà sư thuyết giảng Phật pháp, sướng quá quyết định ở lại núi để tu học. Năm sau, thuyền buôn đến đón, khi xuống núi, sư Phật Quang tặng cho Chử Đồng Tử một cây gậy và một nón lá, bảo rằng các việc “linh thông” có cả trong hai vật này. Có giả thuyết nói rằng Chử Đồng Tử tu tiên chứ không phải tu Phật. Thật ra, cây gậy và nón lá là hai pháp khí của các tăng sĩ Phật giáo tu theo Mật tông từ thời xưa cho đến gần đây. Cây gậy là cây Tích trượng hay pháp khí của các thiền sư tu theo Mật tông. Như vậy, Phật giáo đã được du nhập vào Việt nam từ thời Hùng Vương, cùng thời vua A-dục. Các vị tăng sĩ Ấn Độ tới viếng Việt Nam bằng đường biển theo các thuyền buôn người Ấn. Nhưng trước khi các tăng sĩ tới thì các thương gia ngươi Ấn này đã mang đến VN những sinh hoạt Phật giáo. Sau thời gian hình thành trong vài thế kỷ, Phật giáo Việt Nam bắt đầu phát triển ở thế kỷ đầu của kỷ nguyên dương lịch và đạt đỉnh cao với trung tâm Phật giáo Luy Lâu (TKII – III). Thời nhà Tùy, vua Văn Đế là người mộ đạo, sai người sang Giao Châu để giáo hóa cho dân chúng và xây chùa để con người biết đến đạo Bồ Đề. Nhưng pháp sư Ðàm Thiên tâu rằng, Giao Châu có đường thẳng thông với Thiên Trúc…Khi Phật Pháp mới tới Giang Ðông còn chưa đầy đủ thì ở Luy Lâu đã có 20 ngôi chùa, độ được hơn 500 vị tăng và dịch được 15 cuốn kinh rồi...Phục lăn phục lóc…
 
Cơ mà Khổng Tử (ra đời muộn hơn Đức Phật 72 năm) và các học trò của cụ lại chống đối, chê bai những gì không thuộc về nước lớn. Khổng nói: “Các giống di địch ở miền Ðông và miền Bắc dù thời thái bình có vua cũng không bì được với nước ta trong thời loạn không vua”. Mạnh Tử nói: “Ta từng nghe dùng học thuyết nước lớn để giáo hóa di địch, chưa từng nghe lấy học thuyết di địch đẻ giáo hóa nước lớn bao giờ”. Mâu Tử, một cư sĩ TQ sang Giao Châu đã lâu và theo học các nhà sư Ấn Độ tại đây, quyết phá tan mặc cảm tự tôn cho rằng TQ là trung tâm của trời đất, xung quanh chỉ là biên địa, mọi rợ, di dịch. Mâu Tử bảo có những bậc vĩ nhân xuất thân từ các miền di địch và nói với người đả phá Phật giáo rằng: “Không chắc là đất Hán nằm giữa. Tôi kính trọng đạo Phật nên học Phật và tôi không bỏ Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng. Vàng ngọc không gây tỳ vết cho nhau, bích ngọc và mã não để chung không sao cả. Khi ông cho người khác lầm lạc, có nghĩa chính ông đã lầm lạc không?”. Mâu Tử còn nói: “Ấn Ðộ mới thật nằm giữa trời đất và địa vị trung hòa, vì vậy Phật đã ra đời  nơi đó”. Nguyên tắc pháp môn của Mâu Tử giản dị như sau: “Xe và thuyền không đi cùng một lối, nhưng đều đưa người tới chốn”. Thời ấy là vào khoảng năm đầu công nguyên. Cũng là thời kì VN chịu tai họa 1000 năm Bắc thuộc. Nhưng ngay lúc đó thì các trường phái thiền đã phát triển rất mạnh như Tỳ Ni Đa Lưu Chi hầu như chỉ chịu ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn Ðộ. Ðây là một thiền phái rất có tính cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật giáo, vừa thể hiện được đời sống thực tế, đơn giản của quần chúng nghèo khổ.  
Các thiền sư (nhà Lý nương vào họ để củng cố triều chính và học đạo) đã cố gắng xây dựng một nền văn hóa Việt độc lập với phương Bắc. Về phương diện địa lý nhà Lý đã dời đô về nơi có thể dựng nên sự nghiệp độc lập lâu dài. Về học thuật, họ có công đào tạo một lớp trí thức không cố chấp, biết dung hợp các ý thức dị biệt của Nho, Lão, Phật. Về phương diện văn hóa, họ góp phần dựng nên một triều đại thuần từ, lấy Từ bi làm căn bản cho chính trị. Về văn hóa, họ đã cho ra đời nhiều sáng tác dù phần lớn những tác phẩm này có chủ đề Phật giáo. Về mỹ thuật, những công trình kiến trúc và điêu khắc của Phật giáo cũng là những đóng góp mĩ thụât quan trọng nhất trong thời đại. Về học thuật, các thiền sư đã mở trường dạy học, không những cho tăng sĩ mà còn cho cư sĩ. Thiền sư Vạn Hạnh đã đào tạo nên Lý Công Uẩn. Sau này những nhà nho thiếu căn bản Phật học trở nên giáo điều, cố chấp và hẹp hòi. Thái độ đó đã gây chia rẽ và tạo nên loạn lạc. Hoàng Xuân Hãn đã gọi “Ðời Lý có thể gọi là đời thuần nhất trong lịch sử nước ta. Ðó chính là ảnh hưởng của đạo Phật”. Ðạo đức, từ bi không làm cho dân nghèo nước yếu, trái lại, những yếu tố này đã tạo nên phú cường. Bằng chứng là những chiến thắng Chiêm Thành và quân Tống; trong nước thì không có bạo động; triều đình thì gần gũi với dân… 
Nếu kể đến sự độc lập, tự chủ phải kể đến đời Trần. Từ Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và Anh Tông đều là những người rất giỏi về Phật pháp. Vua Nhân Tông tu theo phái thiền ở núi Yên Tử và được nhận là người truyền thừa của phái này thế hệ thứ sáu. Từ đó trở đi, Yên Tử trở thành nổi tiếng, là lực lượng trung gian có thế lực giữa triều đình và nhân gian. Một nhà vua từng đánh bại cuộc xâm lăng quân Nguyên đem lại hòa bình, thịnh trị cho dân tộc, vậy mà dám bỏ ngai vàng để xuất gia. Cả nước nhìn về ngọn Yên Tử như hướng về ngọn hải đăng. Đạo Phật đã giúp liên kết toàn dân để xây dựng và bảo vệ quốc gia. Cuộc đời xuất gia của Phật hoàng Trần Nhân Tông (Trúc Lâm) vô cùng tích cực. Ngài thường vân du hoằng đạo khắp nơi và luôn được dân chúng ái mộ, khâm phục nên lời khuyên của Ngài có tác dụng rất lớn. Giáo lý Thập Thiện là cơ bản để xây dựng đạo đức xã hội. Phật hoàng đã góp phần xây dựng một xã hội lấy nền tảng luân lý là đạo Phật. Trúc Lâm Yên tử là Phật giáo nhập thế, liên hệ mất thiết tới chính trị, phong hóa xã hội. Thời đại vua Trần Nhân Tông là thời đại mà Phật giáo hưng thịnh đến cực độ. Thế nhưng tinh thần từ bi và khoan dung của đạo Phật không hề tiêu cực và xa lánh. Hội nghị Diên Hồng do vua Trần Nhân Tông triệu tập đã tập hợp dân chúng với quyết tâm “ĐÁNH”…Tiếng nói của ý thức tự chủ và tinh thần tự cường của con dân nước Việt khi Phật giáo thống nhất chỉ có ở đời Trần. Đó là nền Phật giáo độc lập, là uy tín của quốc gia Ðại Việt, là xương sống của nền văn hóa Việt Nam tự chủ. Tuy có tiếp nhận ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Ðộ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình, phục vụ, duy trì và bồi đắp cá tính Việt. Về phương diện văn hóa, Phật giáo đời Trần đã có đóng góp lớn lao mà ưu điểm lớn nhất là tinh thần khoan dung và tự do. Nhà Trần đãi kẻ sĩ không hề hẹp hòi, hòa vị mà có lễ phép. Cho nên nhân sĩ thời ấy ai cũng biết tự lập, anh hào tuấn vĩ vượt lên thói phàm tục. Chính các đặc tính khoan dung và mềm dẻo của văn hóa đời Trần mà vua quan cùng dân chúng đã đồng thanh tương ứng chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Văn học đời Trần rực rỡ và phản chiếu tinh thần từ ái, hòa đồng, thanh thoát, không tỏ ra khiếp nhược, yếm thế mà tóat lên sự tự lực, tự cường và tiến thủ, thấm nhuần tính cách dung hợp và khai phóng của đạo Phật. Văn học Nôm cũng được hình thành trong đời Trần. Nền học vấn đời Trần không bị ràng buộc bởi khoa cử. Chính sách tôn giáo của nhà Trần là tự do và bình đẳng, giới sĩ phu dù xuất thân từ truyền thống tôn giáo nào cũng được triều đình đãi ngộ. Tinh thần Phật giáo giúp các nhà chính trị đời Trần áp dụng những chính sách bình dị, thân dân và dân chủ…Chính vì nhận thấy nguy cơ đó, vào TK15, nhà Minh đã quyết tâm đập tan những cơ cấu văn hóa xây dựng gần 150 năm của Phật giáo đời Trần. Họ thu lượm các sách vở cổ kim của VN đóng thùng chở về nước. Sau đó bọn họ còn cử người sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Ngược lại, họ đem sách Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo của họ sang để thay thế cho những sách đã bị thu hồi. Chính sách tiêu diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia tài tinh thần của triều Trần vô cùng phong phú. Cuối đời Trần, đặc biệt tới đời Lê, mọi sự đã ngoặt sang hướng khác…Một hướng đi rất đau lòng…
Tôi vừa thương vừa giận vừa tiếc vì…
Cuối TK14, một số Nho gia muốn thay đổi để bắt chước theo thể chế sinh hoạt văn hóa của Trung Hoa. Các Nho thần Lê Bá Quát và Phạm Sư Mạnh yêu cầu vua Minh Tông thay đổi thể chế sinh hoạt văn hóa, vua trả lời: “Nước ta đã có phép tắc nhất định, vả lại Nam Bắc phong tục khác nhau. Nếu theo lời của các ngươi, chỉ cốt cho thành tựu mưu chước thì chỉ sinh loạn ra thôi”. Vua Nghệ Tông cũng nói: “Triều đình dựng nước tự có pháp độ riêng, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam Bắc đều là chủ nước mình, không cần bắc chước nhau”. Lớp nhà Nho bắt đầu muốn “Tống hóa” nền văn hóa của Ðại Việt. Thời này, Nho gia bắt đầu công kích Phật giáo. Theo họ, đạo Phật là sự mê tín dị đoan, có hại cho đất nước. Chỉ có một tôn giáo có thể giữ nước và dựng nước, đó là Nho giáo. Các sử thần gọi Nho giáo là đạo Trung dung (Ngô Sĩ Liên), là đạo Nhất trung (Ngô Thì Sĩ). Trạng nguyên Lương Thế Vinh không được thờ trong Văn Miếu do thượng tôn Phật giáo là sự phản ảnh trung thực thái độ cực đoan của Nho gia lúc bấy giờ. Ngô Thì Sĩ viết: “Ðạo chỉ có một, ngoài đạo tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ, không còn gì được gọi là đạo nữa.” Nhiều Nho sĩ giữ thái độ hẹp hòi về tôn giáo và ý thức hệ. Phong thái thấp kém, suy đồi của Nho sĩ cùng với tình trạng rối ren của đất nước đã làm mất đi sự tôn trọng, tự tin của giới Nho sĩ. Suy đồi khi họ đánh mất vai trò lãnh đạo trí thức, văn hóa và chính trị. Trong suốt hơn 200 năm, từ khi nhà Trần bắt đầu suy yếu, đạo Phật không ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa, chính trị nữa. Giới trí thức hướng về đạo Nho như cứu cánh cứu nước và dựng nước. Các Nho sĩ đáng lý phải ý thức được ý định thâm độc của nhà Minh, nhưng trong gần hai thế kỷ, một phần vì thiếu ý thức về văn hóa dân tộc, một phần vì kỳ thị Phật giáo, không có nho gia nào chịu khó tìm tòi gây dựng lại vốn cũ. 
Sau Lê, Nguyễn là sự xuất hiện của người Pháp. Sự học Tây phương bắt đầu thâm nhập vào VN. Người trẻ bỏ Nho học theo tây học. Dần dần tây học cường thịnh thì các nhà Nho về vườn. Đến lúc bị áp đáo, mất uy quyền, các nho sĩ lại bắt đầu lui tới chùa đàm đạo và uống trà thân mật với tăng sĩ, làm như sự xung đột chưa bao giờ xảy ra giữa Nho giáo và Phật giáo cả. Chả giống gì với vẻ cao đạo khi Nho giáo cực thịnh…Chán!!!
 
Vậy là mấy lần VN mất đi cơ hội tuyệt vời để có thể xây dựng một nền tảng văn hóa, tâm linh thoát khỏi vùng ảnh hưởng xấu của Nho học…Sao mà không thương chứ…
Tôi thương lắm vì…
Mảnh đất tôi gọi Tổ quốc ngay từ ngày đầu lập nước đã không được lựa chọn láng giềng cho mình, tựa như không thể lựa chọn cha mẹ vậy. Một láng giềng không hơn về văn hóa, văn minh thuở ấy mà chỉ lấy sự hung bạo để bắt người hàng xóm phải gọi họ là anh, chịu lệ thuộc vào họ. Đương nhiên không phải vì yêu thương mà chỉ để lợi dụng và đè đầu cưỡi cổ đứa em khi cần. Bị cương tỏa, áp đặt bởi bạo lực cả ngàn năm thì đương nhiên sự ảnh hưởng làm sao tránh được? Tư tưởng Khổng giáo âm u, tù hãm, giả dối, mê mờ ám ảnh, chi phối cho đến lúc này vẫn chưa thoát ra được. Sự ghét bỏ và chỉ trích Phật giáo của các Nho thần chưa phải là nguyên nhân làm cho mọi giá trị cùng Phật giáo suy vong. Chính sự chạy theo một nền văn hóa “nước lạ” mà không thấy được giá trị của nền văn hóa truyền thống dân tộc mới là nguyên nhân chính của sự suy đồi. Nền văn hóa “nước lạ” này được xây dựng trên thái độ giáo điều, quan điểm chật hẹp về chân lý: đó là sở học Tống Nho tự cho mình là độc tôn, còn tất cả cái nhìn khác về nhân sinh và về vũ trụ đều là sai lầm. Tính cách cực đoan, độc đoán, độc tôn, tự mãn được “Nho học” đóng dấu và xuất bản cho đến tận lúc này…Có thương dân tộc mình không hả trời?
Tôi thương nhiều vì…
Ngay từ buổi đầu sơ khai bị áp bức và áp đặt ấy, dân tộc VN đã luôn phản kháng lại sự áp bức thô bạo và không thối chí. Cũng từ đó, đời sống người Việt luôn ở trạng thái bị giằng co, uất ức, căm hận, nhưng vẫn phải lựa để gã hàng xóm không kiếm cớ hay “bỗng dưng” sai người tốc sang nhà mình giết, đánh người, cướp của và dương dương tự đắc của kẻ “có lớn mà không có tử tế”. Tâm thế của người Việt chẳng mấy khi yên bình, thoải mái là thế…Chiến tranh liên miên suốt mấy ngàn năm. Vì đâu nên nỗi mà đời sống của Tổ quốc tôi tồn tại và phát triển qua các cuộc chiến tranh giữ nước? Nếu không có gã hàng xóm xấu tính luôn rình rập thì đâu đến nỗi chiến tranh trở thành cuộc sống bình thường qua các thời đại tại xứ sở này? Và, cuộc sống hòa bình bỗng trở thành bất thường? Có phải vì thế đã qua gần 40 năm cuộc chiến (không biết có phải là cuối cùng không) mà dân tộc tôi vẫn chưa quen với lối sống thời bình? Người ta vẫn sợ “diễn biến hòa bình” đến độ nhìn đâu cũng thấy kẻ thù tiềm ẩn ngay chính đồng bào mình? 
Tôi thương và tự hào vì...
Nếu chút gì nền văn hóa đặc thù của Việt Nam còn đến bây giờ là do công gìn giữ của chính những người dân bình thường, nghèo khổ, có khi còn mù chữ. Họ mang niềm tin hồn nhiên, chân thật khi tiếp nhận đạo Phật, dung hòa với tín ngưỡng bản địa ngây thơ, trong sáng. Trong khi phần lớn quan chức, giới trí thức tinh hoa ít nhiều bị ảnh hưởng của Nho học và có đặc quyền, đặc lợi đều trở nên lọc lõi (biết cách tạo chỗ đứng và giữ chỗ đứng), cơ hội, thực dụng (học nhằm đỗ đạt làm quan); bảo thủ, độc đoán (do tự tôn và tự mãn)…đã làm văn hóa, xã hội, chính trị ngả dần theo sức hút (ép buộc) của phương Bắc. Nhưng đến giờ những người có công gìn giữ ấy vẫn chưa có quyền tự chủ quyết định vận mệnh đất nước mình…
Rồi nhớ đến việc hô hào về giữ gìn bản sắc dân tộc…Nhiều người phát biểu, nói này nọ đủ thứ…Tốn bao giấy mực, tiền của hội thảo, lập dự án…Bản sắc dân tộc vẫn cứ “lặn không sủi tăm”…Sao không học từ cha ông hàng nghìn năm trước?
Chả cần phải thêm cái gì sất. Cứ làm nhạt dần và đi đến tuyệt giao với Nho học cực đoan. Bỏ hết những nhãn mác ý thức hệ dán chồng chất lên bao năm nay. Quay lại bồi đắp đạo Phật thành nền tảng tâm thức dân tộc, dung hợp với tín ngưỡng dân gian, bỏ mê tín, dị đoan (chủ yếu du nhập từ TQ). Hãy tin rằng đạo Phật không cần phải thay đổi để thích nghi với khoa học tiên tiến và đời sống hiện đại mà vẫn giữ được cốt lõi của mình. Cứ thế bản sắc dân tộc từ từ lộ diện, chói sáng, tự chủ…Đã có minh chứng từ tiền bối, có phải thời nay phát minh ra đâu? Nhớ nhé, chủ yếu là từ bỏ, không cần phải thêm vào…Sống là trút bỏ dần dần mà…Hihi…
(Còn tiếp)


(*) Tài liệu từ “VN sử học Phật giáo” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và "Sơ lược lịch sử Phật giáo VN" của cử nhân sử học Nguyễn Hiền Đức.


------------------
*****


2 nhận xét:

Tìm kiếm Blog này