Nguồn: Blog Trần Kinh Nghị
Tái hiện nguy cơ cuộc chiến Trường Sa
Như phân tích ở phần trên, Việt Nam luôn ở thế yếu và bị động trước Trung Quốc. Trước những diễn biến tình hình mới, vu tàu Bình Minh 2 là tiếng chuông cảnh báo về khả năng leo thang xung đột trực diện giữa Việt nam và Trung Quốc, kể cả một cuộc chiến nữa tại Trường Sa.
Dĩ nhiên một khi định đánh chiếm Trường Sa, Trung Quốc sẽ có thể ém quân gây sức ép dọc biên giới phía Bắc và Vịnh Bắc Bộ, nhưng không nhất thiết để tiến hành chiến tranh tổng lực với Việt Nam, chí ít trong thời kỳ đầu.
Ảnh:3 tàu hải giám TQ nhìn từ một tàu bảo vệ của Bình Minh 2 |
Theo dõi quá trình vi phạm của phía Trung Quốc đối với chủ quyền biển đảo của Việt Nam trong mấy năm gần đây có thể thấy vụ phá hoại Tàu Bình Minh 02 là nghiêm trong nhất, nếu xét về “tính chính thức” của nó. Chính thức vì nó đi kèm với lập luận của người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Quốc với nội dung đã được chuẩn bị sẵn với nội dung nhằm xuyên tạc, đổi trắng thay đen đúng theo cách thức “vừa ăn cướp vừa la làng” như thể Trung Quốc là nạn nhân của Việt Nam vây!
Tuy nhiên đó mới chỉ là khúc dạo đầu, vì trong mấy ngày tiếp sau phía Trung Quốc vẫn tiếp tục huy động tàu các loại, kể cả tàu hải quân vi phạm đồng loạt trên nhiều địa bàn khác nhau sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, thậm chí có nơi sát bờ biển của Việt Nam. Ngày 31/5 người phát ngôn bộ Ngoại giao Trung Quốc lại còn lên tiếng đòi Việt Nam “chấm dứt vi phạm”(?)
Điểu đáng lưu ý là, những hành động trên đây đã và đang diễn ra ngay trước cuộc Đối thoại cấp Bộ trưởng Quốc phòng thường niên giữa 28 quốc gia chủ chốt của khu vực Châu Á -TBD đang nhóm họp tại Sangri La (Singapore) từ 3-5/6 này- một sự kiện quan trọng bậc nhất về lĩnh vực an ninh khu vưc.
Thông thường không ai dại gì lại khuấy động tình hình trước một dịp như vậy. Nhưng Trung Quốc đang làm điều đó. Trong khi thẳng tay khiêu khích Việt Nam và Philippine thỉ Trung Quốc tỏ ra đấu diệu với Mỹ. Trong huyến thăm Mỹ mới đây Tướng Trần Bỉnh Đức đã chủ động tuyên bố chấm dứt tình trạng ngưng quan hệ hai nước (do vụ Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan hồi năm 2010). Họ cũng thành công trong việc mua chuộc lôi kéo Myanma khỏi sự đồng thuận ASEAN trong vấn đề Biển Đông nhân chuyến thăm của người đứng đầu Myanma đến Bắc Kinh ngày31/5 vừa rồi. Giờ đây bề ngoài có vẽ như “không có vấn đề gì lớn” giữa 2 siêu cường, chỉ còn vấn đề giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, nỗi cộm là Việt Nam và Philipine vốn được coi là đang xâm phạm nhiều “lợi ích cốt lõi” của họ.
Sau vụ tàu Bình Minh 2, đã có một nhận định phổ biến rằng Trung Quốc đang “nắn gân” hay “làm phép thử” đối với Việt Nam và ASEAN. Cũng có ý kiến cho rằng Trung Quốc chỉ “già nắn, rắn buông” mà thôi! Nhận định như vậy không có gì sai, nhưng chưa đủ. Hành động của Trung Quốc còn nhằm kéo dư luận trở lại với đòi hỏi chủ quyền hình “lưỡi bò” vốn đã bị dư luận rộng rãi coi là phi lý, vô căn cứ. Nó cũng cho thấy giờ đây Trung Quốc thực sự nôn nóng muốn kết thúc càng sớm càng tốt đòi hỏi chủ quyền của họ trước khi các nước ven bờ như Việt Nam và Philippine có cơ hội củng cố và xúc tiến việc khai thác tài nguyên trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của mỗi nước. Với mối lo lắng này Trung Quốc rất có thể “làm càn”, không loại trừ khả năng sử dụng vũ lực để đạt những gì mà họ không thể đạt được bằng đấu tranh pháp lý. Họ không "thử" mà đang thật sự ráo riết thực hiện mục tiêu này.
Tái hiện nguy cơ cuộc chiến Trường Sa
Có thể nói, chừng nào Trung Quốc còn nuôi tham vọng độc chiếm Biển Đông chừng đó vẫn còn nguy cơ xung đột quân sự tại khu vực Biển Đông nói chung và tại quần đảo Trường Sa nói riêng. Với Trung Quốc, việc chiếm toàn bộ quần đảo Trường Sa là một cứu cánh duy nhất để vin vào đó khẳng định chủ quyền sâu xuống phía Nam của Biển Đông, nhất là trong trường hợp họ không thể thực hiện ý đồ lấn chiếm sâu vào lãnh hải và đặc quyền kinh tế 200 hải lý hợp pháp của Việt Nam và Philippine. Lúc đó, nếu không được "lưỡi bò", họ vẫn còn cái "lưỡi rắn"!
Kịch bản đánh Trường Sa luôn nung nấu trong đầu các tướng lĩnh bành trướng. Tuy nhiên, họ biết cuộc chiến Trường Sa nếu xảy ra sẽ giống như một con dao hai lưỡi có thể không chỉ phá hỏng tham vọng độc chiếm Biển Đông mà còn ảnh hưởng cả tiến trình “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc. Đối thủ thực sự của Trung Quốc sẽ không phải là Việt Nam, Philippine thậm chí cả khối ASEAN mà là Mỹ và các cường quốc bên ngoài khu vực có thể là Nga, Nhật Bản , Ấn Độ... Nói cách khác đây là một vấn đề quốc tế chứ không phải chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc với các nước ASEAN. Đó là lý do tại sao Trung Quốc luôn “dị ứng’ với việc quốc tế hóa vấn đề tranh chấp Biển Đông và không thực lòng muốn hoàn thiện bản quy tắc ứng xử Biển Đông (DOC).
Nhưng với ứ cách nhìn nhận và đánh giá riêng của họ, nhất là khi có đủ sức mạnh và với lòng nôn nóng muốn đạt mục đích, họ sẽ liều lĩnh tấn công chớp nhoáng hòng chiếm nốt các đảo còn lại ở Trường Sa, chí ít là những đảo lớn và có vị trí chiến lược bất kể đang thuộc Việt Nam hay Philippine, (nhưng chưa cần đánh các đảo do Đài Loan đang chiếm giữ).
Có thể vấn đề duy nhất khiến Trung Quốc do dự là, nếu cùng lúc đánh cả Việt Nam và Philippine thì sợ Mỹ can thiệp; nếu chỉ đánh Việt Nam thì có nhiều khả thi hơn, nhưng vẫn chưa hoàn toàn chắc chắn 100%, và trong quá trình cuộc chiến không loại trừ khả năng hình thành sự liên kết và can thiệp của bên thứ ba (đang là ẩn số) khiến Trung Quốc có thể mất quyền kiểm soát tại các đảo khác, kể cả Hoàng Sa, và cuộc chiến kéo dài, vấn đề trở nên phức tạp và bất lợi hơn.
Tóm lại, có thể thấy khả năng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm Trường Sa đang tái hiện đằng sau những động thái khiêu khích trắng trợn của họ gần đây với cả Phillipine và Việt Nam. Họ thực sự đang nóng lòng và muốn tận dụng cơ hội khi đối phương còn yếu và các bên liên quan chưa đạt được một bộ quy tắc ứng xử Biển Đông.
Lựa chọn nào cho Việt Nam?
Ảnh: một cuộc tập trận của hải lục không quân Việt Nam |
Dĩ nhiên một khi định đánh chiếm Trường Sa, Trung Quốc sẽ có thể ém quân gây sức ép dọc biên giới phía Bắc và Vịnh Bắc Bộ, nhưng không nhất thiết để tiến hành chiến tranh tổng lực với Việt Nam, chí ít trong thời kỳ đầu.
Chỉ còn 2 yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn của Trung Quốc, đó là: a) mức độ phản ứng quốc tế, đặc biệt của Mỹ và tập thể ASEAN; b) Mức độ sẵn sàng đáp trả của bản thân Việt Nam. Đó cũng là hai mặt trận mà Việt Nam cần khẩn trường chuẩn bị, nhất là quỹ thời gian chuẩn bị của Việt Nam giờ đây không còn nhiều.
Vào lúc này bất cứ sự chuẩn bị nào cũng không thừa. Sự nghiệp bảo về độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam giờ đây chính là sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo- đặc biệt là 2 quần đảo Hoàng Sa và trường Sa. Để làm đươc sứ mệnh này, Việt Nam không thể chỉ dựa vào lực lượng của riêng mình mà nhất thiết phải vận dụng sức mạnh tổng hợp của dân tộc kết hợp với việc tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của bạn bè, đồng minh quốc tế và khu vực. Thế mạnh pháp lý và tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh này thuộc về Việt Nam và đó là một lợi thế mà kẻ thù không bao giờ có.
Trong nhiều việc phải làm, có những việc cần làm ngay, đó là:
- Đã đến lúc không thể mơ hồ về địch/ta, bạn/thù. Các cơ quan chức năng cần theo dõi sát diễn biến tình hình, trên cơ sở đó sớm xác định âm mưu, kế hoạch cụ thể của kẻ thù, tránh để rơi vào thế bị động như đã từng xảy ra trước đây. Cũng đừng nghĩ kẻ thù chỉ "nắn gân" mà chúng đang thực sự dùng chiến thuật "biển người" cậy thế mạnh để tiến hành cuọc chiến lấn chiếm trên tthực địa đối với ngư trường và tài nguyên biễn của ta, uy hiếp dân ta không dám bén mảng đến đó nữa rồi từ đó thực hiện độc chiếm lâu dài.
Do đó, trong đấu tranh, ngoài sự mền dẽo khôn khéo, ta cần kiên quyết gián trả mọi hành động lấn lướt của đối phương khiến chúng cũng bị thiệt hai thì mới chùn. Noài mục tiêu bảo vệ sinh mệnh và tài sản của nhân dân, mục tiêu tối thượng là bảo vệ quyền chủ quyền của quốc gia trong phạm vi lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của ta. Để làm việc ta này cần gấp rút tăng cường lực lượng tuần tra biển đồng thời khẩn trương tăng cường và triễn khai thế trận chiến tranh chính quy kết hợp với chiến tranh nhân dân trên biển, đảo.
Trên mặt trận đối ngoại, từ nay ta phải tỏ thái độ dứt khoát và kiên quyết lên án công khai mọi hành động vi phạm chủ quyền của phía Trung quốc. Trước mắt cần chính thức phản đối trước LHQ, đồng thời khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do phía Trung Quốc gây ra trong vụ phá cáp tàu Bình Minh 2 và một số vụ việc khác nếu có đầy đủ chứng cứ. Việc làm này không chỉ là đấu tranh pháp lý mà còn có tác dụng ngăn chặn những hành động phiêu lưu chiến tranh khác.
- Trong đấu tranh, cần phân biệt: Đối với vùng tranh chấp của 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoặc trên hải phận quốc tế, ta cần có biện pháp nhằm giảm thiểu các vụ việc xung đột, tranh chấp không cần thiết. Nhưng đối với vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế từ 200 hải lý trở vào, ta kiên quyết bảo vệ bằng mọi lực lượng có thể, kiên quyết đáp trả thích đáng mọi hành động xâm phạm của đối phương với tinh thần tất cả vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của tổ quốc.
- Trước mắt cần khẩn trương chủ động tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại nhằm phát huy tính chính nghĩa và lợi thế pháp lý của Việt Nam liên quan đến tranh chấp về quyền chủ quyền đối với Trường Sa và Hòang Sa cũng như vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở chứng cứ lịch sử và phùhợp với Luật Biển 1982 . Cần tranh thủ sự đồng tình của dư luận quốc tế như đã từng làm trong quá trình kháng chiến chống Mỹ trước đây. Đồng thời chủ động tích cực phối hợp với các nước hửu quan nhằm sớm đưa ra một bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông (DOC/ COC) làm công cụ điều chỉnh quan hệ giữa các nước trong khu vực và góp phần kiềm chế sự lộng hành của nước lớn.
- Trong đối nội, bằng mọi biện pháp xây dựng và cũng cố khối đoàn kết toàn dân nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc cho cuộc đấu tranh trước mắt và lâu dài chống kẻ thù chung. Đã đến lúc cần xóa bỏ những quy định cũ không còn phù hợp với tình hình mới nhằm kích hoạt và phát huy đúng đắn vai trò nhân dân trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
Lịch sử cho thấy, đoàn kết toàn dân là nhân tố quan trọng nhất để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Tuy nhiên có lẽ chưa bao giờ khối đoàn kết dân tộc lại suy yếu như bây giờ. Biẻu hiện rõ nhất là dường như không còn nữa một sự đồng cảm giữa người dân và lãnh đạo. Trong những ngày qua lãnh đạo nghĩ gì dân không biết nên hoang mang mất lòng tin là điều không thể tránh khỏi. Do lo sợ, chủ quan hay bất lực? Chỉ biết rằng, mới đây vị cựu tướng quân và Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã đưa ra một kinh nghiệm xương máu mà cũng là một lời khuyên rằng " SỢ LÀ MẤT CHỦ QUYỀN". Có thể ông đang nhìn thấy ai đó đang sợ?
------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét